Về chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Ngoại giao TQ Vương Nghị

Hàng ngàn tàu đánh cá của Trung Quốc từ đảo Hải Nam tràn xuống Biển Đông hôm 16 tháng Tám sau khi Bắc Kinh chấm dứt lệnh cấm đánh cá. Ảnh Luo Yunfei/China News Service via Getty Images

Ủy viên Quốc vụ kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị (Wang Yi) vừa kết thúc chuyến thăm Việt Nam, điểm dừng chân đầu tiên trong chuyến công du bốn quốc gia Đông Á (Việt Nam, Cambodia, Singapore và Nam Hàn) trong dịp cuối tuần này. Chuyến đi của Vương mang thông điệp gì và chính quyền Việt Nam đáp lại như thế nào sẽ cho ta thấy phần nào chính sách thật của Hà Nội. 

Vương Nghị thăm Hà Nội với mục đích gì?

Ông Vương tới Hà Nội hôm Thứ Sáu 10 Tháng Chín, gần như trùng với chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Nobuo Kishi. Bộ trưởng Kishi chỉ gặp và hội đàm với người đồng cấp Việt Nam là Bộ trưởng Quốc phòng Phan Văn Giang; trong khi ông Vương Nghị hội đàm với Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn, gặp Phó Thủ tướng thường trực Phạm Bình Minh, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Việc sắp xếp đón tiếp như vậy của nước chủ nhà dường như cho thấy Vương được coi trọng hơn hẳn so với ông bộ trưởng Nhật Bản, dù cả Trung Quốc và Nhật đều là đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam. 

Chuyến thăm Việt Nam của Vương Nghị diễn ra một thời gian ngắn sau khi Việt Nam đón tiếp Phó Tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris hồi cuối Tháng Tám và trước đó nữa là chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Lloyd Austin trong Tháng Bảy 2021. Hai chuyến thăm cao cấp liên tiếp của Hoa Kỳ cho thấy Việt Nam được Mỹ coi là một đối tác quan trọng trong chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của chính quyền Biden, muốn Việt Nam hợp tác với Mỹ và cộng đồng các quốc gia dân chủ chống lại sự bành trướng ảnh hưởng của Trung Quốc. 

Tại Hà Nội, Phó Tổng thống Harris đã không úp mở mà nói thẳng với giới lãnh đạo Việt Nam: “Chúng ta cần tìm cách gây áp lực, tăng sức ép… buộc Bắc Kinh tuân thủ Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, và thách thức các hành vi bắt nạt và yêu sách hàng hải thái quá của họ”. Trước đó, vào Thứ Ba, 24 Tháng Tám tại Singapore, bà Harris cáo buộc Bắc Kinh đã ép buộc và có các hành vi đe dọa để hỗ trợ các tuyên bố chủ quyền ‘trái pháp luật’ của Trung Quốc ở các khu vực đang tranh chấp ở Biển Đông. Phát biểu thẳng thắn và mạnh mẽ của Phó Tổng thống Harris, cộng với lời khẳng định của Bộ trưởng Quốc phòng Austin về cam kết của Mỹ bảo vệ tự do hải hành, chống lại cái mà ông gọi là “những yêu sách chủ quyền vô căn cứ và không có ích lợi gì” của Trung Quốc chắc chắn đã khiến Bắc Kinh bị “chạm nọc” và phải tìm cách hóa giải. Chuyến đi của Vương Nghị nhằm mục đích phản ứng lại cuộc vận động ngoại giao của Mỹ và gia tăng lôi kéo các nước Việt Nam, Singapore về phe với Trung Quốc.

Trung Quốc đã không ít lần cảnh cáo Việt Nam chớ nghe theo “lời đường mật” của Mỹ, nhắc nhở hai nước Mỹ-Việt đã từng thù địch trong cuộc chiến tranh chưa xa, cũng như nhấn mạnh vào tính chất tương đồng về thể chế chính trị và ý thức hệ giữa hai nước cộng sản. Trong cuộc gặp Phạm Bình Minh, Vương Nghị cũng không quên khuyến cáo Hà Nội: “Hai bên nên tránh bất cứ hành động đơn phương nào có thể làm phức tạp thêm tình hình và leo thang tranh chấp. Đồng thời nên đề phòng sự can thiệp của các thế lực bên ngoài”, hàm ý nói tới Hoa Kỳ và các nước khác, theo hãng tin nhà nước Trung Quốc, Tân Hoa Xã.

Chiến thuật vừa đấm vừa xoa của Bắc Kinh

Trong chuyến thăm Hà Nội, Vương Nghị cũng hứa Trung Quốc sẽ viện trợ cho Việt Nam ba triệu liều vaccine ngừa Covid-19 do Trung Quốc sản xuất như một cử chỉ lấy lòng nước chủ nhà sau khi Hoa Kỳ và các nước phương Tây viện trợ khá hào phóng cho Việt Nam chống dịch. Tưởng cần nhắc lại rằng, trong các chuyến đi “ngoại giao vaccine” hồi đầu năm nay, Vương Nghị đã hứa viện trợ vaccine cho tất cả các nước Đông Nam Á, trừ Việt Nam, như một cách “trừng phạt” Hà Nội do Bắc Kinh coi Việt Nam là nước không thân thiện trong vấn đề Biển Đông. Thái độ của Bắc Kinh với Hà Nội chỉ thay đổi sau khi Việt Nam được Hoa Kỳ đưa vào danh sách “đối tác quan trọng” trong chiến lược an ninh của Mỹ và Washington đẩy mạnh vận động sự hợp tác của Hà Nội. Việt Nam đang thất bại trong cuộc kiểm soát đại dịch COVID-19 và đến nay mới chỉ có 3.5% dân số Việt Nam được tiêm chủng; bằng việc viện trợ vaccine liên tục – ngay trước khi Phó Tổng thống Harris đến Hà Nội, Đại sứ Trung Quốc Hùng Ba đã cam kết viện trợ hai triệu liều vaccine – Trung Quốc hy vọng sẽ lôi kéo được Việt Nam rời xa quỹ đạo của Mỹ, một lòng một dạ đi theo Trung Quốc.

Nhưng điều đó không ngăn cản Trung Quốc gia tăng chèn ép Việt Nam trên Biển Đông qua các cuộc tập trận quân sự, xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế, xua đuổi và trấn áp tàu thuyền đánh cá và thăm dò dầu khí của Việt Nam. Trong tám tháng đầu năm nay, Trung Quốc đã thực hiện 36 cuộc tập trận quy mô tại Biển Đông, trong đó có 14 cuộc tập trận tại vịnh Bắc Bộ và một cuộc tập trận tại quần đảo Hoàng Sa. Trong những ngày Việt Nam bận rộn đón tiếp Phó Tổng thống Mỹ, Trung Quốc đã điều tàu khảo sát Hải Đại Hiệu (Hai Da Hao) đi sâu vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, cách bờ biển Phú Yên chỉ 60 hải lý; và cử tàu thăm dò đáy biển Hải Dương Địa Chất 10 (Haiyang Dizhi 10) đi vào vùng EEZ Việt Nam tại khu vực Bãi Tư Chính (Vanguard Bank) phía Nam đảo Côn Sơn – có khả năng khởi đầu cho một cuộc xung đột mới.

Hồi đầu tháng này, Bắc Kinh bắt đầu thực hiện luật an toàn hàng hải mới, theo đó tàu thuyền đi trên Biển Đông, trong khu vực đường lưỡi bò chín đoạn mà Trung Quốc coi là vùng chủ quyền của hô, đều phải khai báo. Quy định của Trung Quốc tác động đến nhiều nước, nhưng chắc chắn Việt Nam là nước bị ảnh hưởng nhiều nhất mà không có năng lực phản kháng hành động chèn ép của Trung Quốc.

Thái độ của Hà Nội

Thủ đoạn vừa đấm vừa xoa, liên tục biến đổi hết sức tinh vi và xảo quyệt của Trung Quốc làm cho nhà cầm quyền Hà Nội bị động, có thể nói là khiếp sợ và sẵn sàng khuất phục. Về các cuộc hội đàm giữa Vương Nghị với các lãnh đạo chính quyền Hà Nội, báo chí do nhà nước kiểm soát ở Việt Nam những ngày này đăng nhiều tin bài với lời lẽ nhũn nhặn, phản ánh thái độ cầu an, khác với tường thuật của Tân Hoa Xã Trung Quốc. Báo Quân Đội Nhân Dân chẳng hạn, nói về vấn đề trên biển: “hai bên nhất trí tiếp tục tuân thủ nghiêm túc nhận thức chung cấp cao, kiểm soát tốt bất đồng, không có hành động làm phức tạp tình hình, mở rộng tranh chấp, cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông”. Trang VNExpress thuật lời ông Phạm Minh Chính “nhấn mạnh” với ông Vương Nghị là “Hai bên cần chỉ đạo các lực lượng thực thi pháp luật trên biển tuân thủ nhận thức chung cấp cao, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc, nỗ lực xử lý thỏa đáng, kiểm soát tốt bất đồng và giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định trên biển.” Cũng những tờ báo này, khi bài bình luận về chuyến thăm của Phó Tổng thống Harris hồi cuối tháng trước, đã có giọng lưỡi hằn học khác hẳn. 

Ở Việt Nam, báo chí là cái loa phát thanh của đảng và chính quyền, qua báo chí người ta có thể biết quan điểm của chính quyền Việt Nam là nghiêng hẳn về phía Trung Quốc trong cuộc đu dây giữa hai cường quốc bất chấp những nỗ lực kêu gọi hợp tác của Hoa Kỳ. 

Và như vậy, vấn đề chủ quyền quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ ở Biển Đông – không gian sinh tồn của dân tộc Việt – cũng như khát vọng của gần 100 triệu dân về dân chủ tự do, pháp quyền và nhân quyền vẫn chưa phải là ưu tiên của giới cầm quyền Hà Nội.

Đọc thêm:

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Tướng phu thê
Dân gian Việt Nam thường dùng từ “tướng phu thê” khi thấy các cặp vợ chồng có nét mặt giống nhau. Nhưng về khoa học, chuyện này cũng được minh…
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: