Vào tháng 10 năm 2019, chính quyền TP Đà Nẵng dự kiến đặt nhiều tên đường mới để ghi nhận và tôn vinh công lao của Mẹ Suốt (1906-1968); Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Vũ Xuân Thiều (1945-1972); nhà văn Nguyễn Đình Thi (1924-2003); nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Văn Thông (1926-2010) và trong danh sách đề xuất đặt tên đường khi ấy của Đà Nẵng có tên 2 giáo sĩ Dòng Tên Francisco De Pina và Alexandre de Rhodes. Dự kiến tên của 2 vị giáo sĩ này sẽ được lấy để đặt tên cho hai tuyến đường (7,5m và 10,5m) ở khu Đông Nam đài tưởng niệm thuộc quận Hải Châu, TP Đà Nẵng. Khi dự thảo được đem ra lấy ý kiến, vào ngày 23 Tháng Mười 2019, 12 nhà nghiên cứu văn hóa – lịch sử hầu hết công tác tại Huế cùng ký đơn kiến nghị không nên đặt tên đường Francisco De Pina và Alexandre de Rhodes. Lý do, những trí thức này, gọi chữ quốc ngữ do các linh mục truyền giáo tạo ra, là công cụ để Pháp xâm lược Việt Nam.
Trong dòng văn hóa “xét lại” sau năm 1975, chữ quốc ngữ cũng trở thành nạn nhân. Có khá nhiều trí thức nhà nước không thừa nhận vai trò của giáo sĩ Alexandre de Rhodes và giáo sĩ Francisco de Pina trong sự hình thành của chữ quốc ngữ, không công nhận Alexandre de Rhodes là người sáng chế chữ quốc ngữ, cùng với những ngôn ngữ không khác gì cách mạng văn hóa ở Trung Quốc.
Vào Tháng Bảy 2024, công trình nghiên cứu “Lịch sử chữ quốc ngữ (1615-1919)” bản tiếng Việt của tác giả tiến sĩ Phạm Thị Kiều Ly ra mắt đúng dịp tròn 400 năm (1624-2024) ngày Alexandre de Rhodes – người có đóng góp quan trọng vào việc sáng tạo chữ quốc ngữ – đặt chân đến Hội An. Cuốn sách này là bản dịch tiếng Việt của tác phẩm. Đó là cuốn sách chi tiết và tường tận về lịch sử hình thành chữ quốc ngữ, không bị trói gô trong quan điểm chính trị. Trên thực tế, đây có thể coi là cuốn sách đầy tính học thuật, nghiên cứu, giải oan tội “gián điệp” cho chữ quốc ngữ.
“Histoire de l’écriture romanisée du vietnamien (1615-1919)” của Phạm Thị Kiều Ly, Tiến sĩ khoa học ngôn ngữ của Đại học Sorbonne Mới (Université Sorbonne Nouvelle) Paris do nhà xuất bản les Indes Savantes ấn hành ngày 7 Tháng Mười Một 2022. Cuốn sách này vốn là luận án tiến sĩ của cô tại Đại học Sorbonne nouvelle năm 2018. Cô cho biết trong thời gian soạn luận án, cô cũng khá hoang mang khi đọc những bài báo tranh luận về Alexandre de Rhodes ở Việt Nam, nhưng rồi cô vẫn kiên trì nghiên cứu về quá trình hình thành chữ quốc ngữ ở Việt Nam sau khi GS Cao Huy Thuần viết email khích lệ cô.
“Histoire de l’écriture romanisée du vietnamien (1615-1919)” đã phân tích quá trình hình thành của chữ quốc ngữ từ năm 1615. Điểm khác biệt giữa công trình nghiên cứu của cô so với những tác phẩm nghiên cứu trước đây về chữ quốc ngữ là cột mốc thời gian: năm 1615.
Theo cô, “theo các thông tin về Vương quốc Đàng Trong do Fernandes de Costa, thương nhân Bồ Đào Nha, cung cấp thì một nhóm nhà truyền giáo gồm Francesco Buzomi, Diogo de Carvalho và Antonio Dias đã lên các tàu buôn rồi cập cảng Tourane (nay là Cửa Hàn, Đà Nẵng) ngày 18 Tháng Một năm 1615. Sau một thời gian, họ ở lại thương cảng Faifo, là nơi tàu thuyền Bồ Đào Nha và Ý thường xuyên ghé lại và là nơi người Nhật, người Hoa và người Việt cùng nhau chung sống và buôn bán”. Cô giải thích về điểm khác biệt giữa công trình nghiên cứu mới của mình với những công trình nghiên cứu trước đây: “Khi nghiên cứu về chữ quốc ngữ, các học giả trước tôi thường chỉ quan tâm tới một giai đoạn với mục đích cụ thể. Ví dụ, nhà nghiên cứu Đỗ Quang Chính vốn là một linh mục dòng Tên đã xuất bản cuốn “Lịch sử chữ quốc ngữ” vào năm 1972 với mốc thời gian 1620 – 1659 (thời kỳ đầu truyền giáo của dòng Tên tại Việt Nam).
Sau đó, các công trình của giáo sư Roland Jacques tập trung nghiên cứu vai trò của người Bồ Đào Nha trong việc sáng tạo chữ quốc ngữ, có nghĩa cũng vào thời kỳ đầu khi các thừa sai Bồ Đào Nha tới Việt Nam và tiến hành ghi tiếng Việt bằng văn tự Latin.
Một số nhà nghiên cứu khác như Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên, Thanh Lãng, Võ Long Tê cũng đã có những công trình nghiên cứu về quá trình sáng tạo và phát triển của chữ quốc ngữ dựa trên những tư liệu mà các ông sưu tầm được. Cho nên các mốc thời gian đôi khi lại là mốc của một văn bản quan trọng nào đó.
Nghiên cứu là đi lại con đường của người đi trước, rồi tìm thấy một mảnh đất chưa được khai phá dành cho mình. Khi bắt đầu làm luận án tiến sĩ, tôi hiểu rằng quá trình các thừa sai ghi các âm tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh nằm trong trào lưu chung của “ngữ học truyền giáo” từ thế kỷ 16. Nghĩa là các thừa sai đã có một phương pháp học tiếng khá bài bản. Khi họ tiếp xúc với người bản xứ, họ đã biết cần phiên âm tiếng đó bằng mẫu tự Latin để cho dễ học. Chính vì vậy tôi đã lấy mốc thời gian là năm 1615 vì đó là năm các giáo sĩ dòng Tên đầu tiên tới Đàng Trong.
Khi đi tìm tư liệu tại các trung tâm lưu trữ ở châu Âu, tôi đã sưu tầm được khá nhiều văn bản viết tay cho phép tái hiện một cách khá trọn vẹn lịch sử chữ viết hệ Latin của tiếng Việt. Tôi chọn khung thời gian nghiên cứu từ năm 1615 – 1919 vì muốn khảo sát quá trình hình thành và phát triển của chữ quốc ngữ cũng như những nhân tố như tôn giáo, chính trị, giáo dục… ảnh hưởng tới số phận của chữ viết này.
Tôi chọn thời điểm kết thúc kỳ thi Hội năm 1919 để kết thúc nghiên cứu vì 1919 là năm cuối cùng tổ chức khoa thi Hội ở kinh đô Huế; đánh dấu sự kết thúc của việc cần thiết phải thông thạo chữ Hán, bên cạnh chữ quốc ngữ, trong triều đình”.
Như vậy, điểm độc đáo của công trình nghiên cứu của Phạm Thị Kiều Ly là đưa sự hình thành chữ quốc ngữ – ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh – vào trào lưu chung mà cô gọi là “ngữ học truyền giáo” (missionary linguistic) từ thế kỷ 16: khi tiếp xúc với người bản xứ, các giáo sĩ đã biết phiên âm ngôn ngữ của họ bằng mẫu tự La tinh để cho dễ học. Để giao tiếp với người bản xứ, các thừa sai Dòng Tên đầu tiên đến Việt Nam đã theo một phương pháp học hỏi chung: soạn thảo văn phạm và phiên âm ngôn ngữ bản xứ bằng mẫu tự La tinh. Alexandre de Rhodes đã xuất bản cuốn “Dictionarium Annamiticum Lusitanum” tại Roma vào năm 1651, được xem như văn bản nền tảng của việc phiên âm tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh. Đến phiên mình, các vị đại diện tông tòa Pháp và các linh mục của Hội Truyền giáo Hải ngoại (Missions Étrangères de Paris) đã đến Đàng Trong và Đàng Ngoài từ năm 1663. Họ thành lập một trường chung ở Ayutthaya (Siam) và các trường địa phương ở Đàng Ngoài với mục đích đào tạo giáo sĩ bản xứ, sử dụng chữ viết La tinh hóa của tiếng Việt.
Mọi người đều biết diễn tiến sau đó: năm 1858, người Pháp chiếm Đàng Trong, thay đổi sâu sắc tình hình chính trị, ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam. Chữ viết La tinh hóa của tiếng Việt, gọi là chữ quốc ngữ, đi ra khỏi phạm vi của Giáo hội, được đưa vào chương trình giảng dạy tại Nam kỳ và trở thành chữ viết chính thức khi soạn thảo các văn bản hành chính (1882), rồi sau đó tại Bắc kỳ và Trung kỳ (1884−1885). Được các nhà trí thức Việt Nam ủng hộ mạnh mẽ, chữ quốc ngữ được giảng dạy với mục tiêu xóa mù chữ. Sau khi bỏ hệ thống thi cử tuyển chọn các quan lại vào năm 1919, nó đã thay thế chữ Hán trong hầu hết các hoạt động xã hội Việt Nam và trở thành chữ viết chính thức của quốc gia vào năm 1945.
Sự thành công của chữ viết La tinh hóa tiếng Việt, chưa từng có trong thế giới chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, là kết quả của hai ý muốn song đôi: ý muốn của thực dân Pháp muốn học tiếng Việt theo cách dễ nhất và làm cho hai nền văn hóa Việt và Pháp xích lại gần nhau, và ý muốn của các văn nhân Việt nhìn thấy đây là một công cụ chiến đấu chống nạn mù chữ.
“Histoire de l’écriture romanisée du vietnamien (1615-1919)” là công trình nghiên cứu mới nhất nối tiếp các công trình nghiên cứu trước đây, khẳng định vai trò của các giáo sĩ Dòng Tên trong sự hình thành của chữ quốc ngữ ở Việt Nam, thứ văn tự mà người Việt chúng ta vẫn sử dụng cho đến nay, có thể giúp những người hay nhắm mắt, bịt tai trước những từ như “truyền giáo”, “thực dân” phải từ bỏ những định kiến để nhìn nhận những sự thật lịch sử.