Vụ nổ súng ở Đắk Lắk: Tai họa đâu chỉ một ngày

Cảnh sát cơ động ra quân truy bắt những người Thượng nổ súng giết cán bộ ở Đắk Lắk hôm 11/06/2023. Ảnh TTXVN

Vụ người dân bất ngờ tấn công trụ sở ủy ban hai xã Ea Tiêu và Ea Ktur thuộc huyện Cư Kuin tỉnh Đắk Lắk giết chết bảy người, trong đó có bốn sĩ quan công an, đang thu hút sự quan tâm của dư luận và làm dấy lên nhiều ý kiến đa dạng. 

SGN là tờ báo tiếng Việt ở hải ngoại sớm đưa tin về sự kiện chấn động ngay sau khi nó xảy ra (Bạo động đánh giết công an đồn trú ở Tây Nguyên) và đã có bài thứ hai (Vụ đột kích ở Đắk Lắk: Vì sao người Thượng nổi giận?) phân tích những nguyên nhân khả dĩ dẫn tới sự kiện chấn động đó và điểm qua những ý kiến bình luận trên các mạng xã hội.

Cho đến chiều tối ngày 12 tháng Sáu, tức trưa ngày 13 tháng Sáu ở Việt Nam, hai ngày sau vụ nổ súng, vẫn không có nhiều tin tức mới về sự kiện, trừ những thông tin do công an cung cấp cho báo chí chính thức, theo đó:

-Đã có 39 người bị bắt giam và các lực lượng đang tiếp tục truy tìm số nghi phạm còn lại.

– Thủ tướng đã cấp bằng Tổ quốc ghi công cho 4 liệt sĩ thuộc Bộ Công an và 2 liệt sĩ thuộc tỉnh Đăk Lăk hy sinh trong khi làm nhiệm vụ là: thiếu tá Hoàng Trung và đại úy Nguyễn Đăng Nhân, công an xã Ea Ktur; thiếu tá Trần Quốc Thắng và đại úy Hà Tuấn Anh, công an xã Ea Tiêu; Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Ea Ktur Nguyễn Văn Kiên; Chủ tịch UBND xã Ea Tiêu Nguyễn Văn Dũng.

Báo chí chính thức hoàn toàn không đề cập đến lý do vì sao người dân nổ súng tấn công cơ quan công quyền, hoặc chỉ coi đây là một vụ “khủng bố”, “sát hại người dân”, tạo căn cứ cho các dư luận viên của đảng Cộng sản lên mạng chửi bới, đòi trừng trị đích đáng những kẻ bạo loạn.

Trong khi đó, trên báo chí hải ngoại và mạng xã hội, có không ít nhận định chỉ ra nguyên nhân của sự kiện là nỗi phẫn uất của người dân hai xã Ea Tiêu và Ea Ktur – chỉ cách thành phố Buôn Ma Thuột hơn 5km về phía đông nam theo đường chim bay và nằm rất gần sân bay Buôn Ma Thuột – khi họ bị cưỡng chế lấy đất phục vụ dự án xây dựng đường Hồ Chí Minh đoạn tránh phía đông thành phố Buôn Ma Thuột và xây khu đô thị mới Trung Hòa mở rộng thành phố.

Những vụ người dân dùng súng đạn nói chuyện với chính quyền khi họ bị cưỡng chế ra khỏi nơi cư trú hoặc canh tác đã không còn là chuyện hiếm; có thể kể ra các vụ Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng, Đặng Ngọc Viết ở Thái Bình hoặc Đặng Văn Hiến ở Đắk Nông mà thông tin còn khá đầy đủ trên mạng Internet.

Vụ gần đây nhất và cũng gây phẫn nộ lớn nhất là vụ nhà cầm quyền huy động 3,000 công an tấn công vào thôn Hoành xã Đồng Tâm ngoại thành Hà Nội trong đêm khuya và bắn chết ông cụ Lê Đình Kình ngay trên giường ngủ với dã tâm chiếm khu đất Đồng Sênh đang tranh chấp với dân làng.

Trước khi xảy ra vụ nổ súng giết các viên chức chính quyền ở Đăk Lắk, người dân đã bị chính quyền cưỡng chế thu hồi đất tại xã Ea Tiêu hồi tháng Năm năm ngoái, và bị đàn áp dã man trong vụ biểu tình ngày 20 và 21 tháng Tư vừa qua để phản đối việc xả nước thải vào hồ Ea M’Ta chứa nước của khu vực khiến bảy người bị thương phải vào bệnh viện điều trị. Một nguồn tin nói, cả sáu nạn nhân của vụ tấn công đều là những quan chức tham gia và chỉ đạo vụ cưỡng chế đất và đàn áp biểu tình. Cho nên, nói đây là vụ trả thù, “tức nước vỡ bờ”, “con giun xéo mãi cũng quằn” như một số bình luận trên mạng xã hội cũng có căn cứ. 

Tai họa đâu chỉ một ngày

 

Một người Thượng bị bắt sau vụ nổ súng ở Đắk Lắk. Ảnh Văn Thành báo CAND

Nhưng sự kiện ở Đắk Lắk hôm 11 tháng Sáu dường như có nguyên nhân sâu xa hơn là chuyện chính quyền cưỡng chế để lấy đất làm dự án và đây cũng không phải là lần đầu tiên một nhóm người dân cao nguyên dùng vũ khí nói chuyện với nhà cầm quyền.

Vùng cao nguyên Trung phần, gọi là Tây Nguyên, từ lâu đã trở thành một điểm nóng xung đột giữa nhà cầm quyền cộng sản với các cộng đồng người dân tộc thiểu số xoay quanh ba vấn đề chính: đất đai, tín ngưỡng tôn giáo và văn hóa. Những lĩnh vực xung đột này lại bắt nguồn từ chủ trương “phát triển Tây Nguyên” của đảng Cộng sản Việt Nam thực thi trong suốt 48 năm qua, kể từ khi chiếm được miền Nam.

Chủ trương đối với Tây Nguyên có trọng tâm là phát triển kinh tế kết hợp với an ninh quốc phòng nhưng được thực hiện bằng những chính sách sai lầm và tàn bạo, không hiểu biết về đặc tính dân tộc và văn hóa của người bản địa nên đã dẫn tới hậu quả là sự tàn phá môi sinh, đảo lộn cơ cấu dân cư và xã hội. 

Trong một tiểu luận dài và sâu sắc dưới nhan đề “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên”, nhà văn Nguyên Ngọc – người có hàng chục năm sống và làm việc, và có nhiều tác phẩm đặc sắc về con người và vùng đất này – đã tóm tắt các chính sách lớn của đảng CSVN là tổ chức một cuộc di cư khổng lồ khoảng 5 triệu dân từ châu thổ sông Hồng và duyên hải Nam Trung Phần lên Tây Nguyên; tổ chức toàn bộ Tây Nguyên thành các đơn vị kinh tế lớn, quốc hữu hóa toàn bộ đất và rừng Tây Nguyên, giao cho các binh đoàn làm kinh tế kết hợp với quốc phòng, người bản địa chỉ còn phần đất thổ cư và một ít đất làm rẫy.

Hậu quả của các chính sách đó, cũng theo nhà văn Nguyên Ngọc, là dân số Tây Nguyên tăng nhanh với cường độ lớn; chỉ sau vài chục năm các dân tộc bản địa chỉ còn chiếm 15-20% dân số toàn địa bàn; làng – tế bào căn bản của xã hội Tây Nguyên – bị tan vỡ; môi trường bị tàn phá nghiêm trọng; người dân tộc bản địa bị mất đất và văn hóa Tây Nguyên bị mai một.

Ông Nguyên Ngọc chưa đề cập tới xung đột văn hóa, trong đó khối người Kinh từ đồng bằng lên chiếm đất và khinh bỉ người dân tộc bản địa, chèn ép họ về kinh tế và chính trị, xóa bỏ văn hóa và lối sống của họ. Khối người Kinh di cư này lại là nòng cốt của chính quyền, hành xử như một lực lượng chiếm đóng, một chế độ thực dân trá hình. Có sống một thời gian ở Pleiku, Buôn Ma Thuột mới cảm được cảnh người Thượng đi làm thuê làm mướn cho các chủ trang trại người Kinh ngay trên đất đai của tổ tiên họ, phải giấu nỗi buồn trong men rượu!

Gần đây lại có thêm xung đột tôn giáo khi những người dân Tây Nguyên theo đạo Tin Lành liên tục bị sách nhiễu, bị đánh đập để buộc họ phải từ bỏ tín ngưỡng, hoặc ngăn cản không cho họ thực hành đức tin.

Bị tước đoạt đất đai, bị đàn áp về tôn giáo, bị khinh bỉ về văn hóa, người Thượng đã không ít lần biểu tình phản kháng trong các năm 2001, 2004 và kéo dài nhiều năm về sau. Nhà cầm quyền ở Hà Nội tổ chức đàn áp, săn đuổi khiến hàng ngàn người phải bỏ nhà cửa lánh nạn sang Cambodia và Thái Lan. Bằng chứng về những vụ đàn áp, bắt bớ, giam cầm người bản địa Tây Nguyên để ngăn họ phản đối không hiếm, rất dễ tìm thấy trên mạng, trong các cơ sở dữ liệu của các tổ chức nhân quyền, tự do tôn giáo hoặc các cơ quan truyền thông quốc tế.

Những chính sách và lối cai trị của chính quyền cộng sản đối với người Thượng ở Tây Nguyên không khác nhiều so với cách mà Trung Quốc cư xử với người Tây Tạng và người theo Hồi giáo ở Tân Cương, Thanh Hải – một chủ trương diệt chủng từ từ bằng đàn áp và đồng hóa. Cũng như ở Trung Quốc, sự phản kháng của người Thượng ở Tây Nguyên đã được cảnh báo từ lâu, sớm muộn cũng sẽ xảy ra nếu nhà cầm quyền không thay đổi chính sách. 

Bạo lực kích thích bạo lực

Công an và lực lượng đặc nhiệm truy bắt các nghi can tại cầu Cá Ngựa, thôn Đồng Sơn, huyện Cư Kuin. Ảnh TTXVN

Trước nỗi đau khổ và phẫn nộ của các cộng đồng người Thượng Tây Nguyên, thay vì tìm hiểu tình hình và đối thoại để đề ra giải pháp, chính quyền cộng sản chỉ sử dụng bạo lực để trấn áp. Đảng CSVN lập ra Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, trong đó công an và quân đội giữ vai trò nòng cốt, để “bình định” vùng đất này, đập tan những vụ phản kháng của người dân. 

Đảng CSVN không bao giờ coi các vụ biểu tình, phản kháng của người Tây Nguyên là do chính sách sai lầm của họ mà luôn lập luận người dân bị các “thế lực thù địch” lợi dụng, tổ chức và xúi giục để chống lại chính quyền. Thế lực thù địch đó đôi khi họ bảo là Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức (FULRO) – một tổ chức vũ trang đã tan rã từ lâu, có khi là đạo Tin Lành Đề Ga – một thứ tôn giáo chưa ai từng biết đến.

Cho đến nay, Tin Lành Đề Ga và FULRO vẫn là lý do chính để chính quyền vin vào đó mà đẩy những người bản địa bất đồng chính kiến, có tinh thần phản kháng vào nhà giam dù thực chất hai bóng ma này hầu như chỉ tồn tại trong nỗi hoang tưởng của nhà cầm quyền. Có điều, bạo lực sẽ kích thích bạo lực, tạo ra một cái vòng lẩn quẩn không lối thoát.

Lần này, ngay sau khi xảy ra vụ nổ súng ở trụ sở hai xã Ea Tiêu và Ea Ktur, nhà cầm quyền lập tức điều động các đơn vị công an và quân đội phong tỏa khu vực, thiết lập nhiều lớp kiểm tra, tuần tra để truy lùng nghi phạm đồng thời ngăn chặn thông tin từ người dân, từ các nguồn độc lập để có thể có bức tranh đầy đủ về vụ việc.

Đồng thời, thông qua các cơ quan báo chí do chính quyền kiểm soát, đảng CSVN nhanh chóng tuyên truyền rằng vụ tấn công là hành động khủng bố, tạo cớ để kích thích sự lên án của công chúng đối với các nghi phạm, và biện minh cho hành vi tra tấn, ép cung, tước đoạt nhân quyền của những người bị bắt.

Khủng bố thường được hiểu là hành vi bạo lực nhắm mục tiêu vào thường dân, những người vô tội và không có phương tiện tự bảo vệ; vụ tấn công cơ quan công quyền, giết chết các quan chức lãnh đạo đảng và sĩ quan công an – những người có vũ khí bất ly thân – có thể không hoàn toàn là hành vi khủng bố mà chỉ là sự phản kháng bằng bạo lực trong hoàn cảnh tuyệt vọng của những người dân bị ép vào đường cùng bởi một nhà nước bạo lực.

Dùng bạo lực của nhà nước để trấn áp hành vi phản kháng bằng bạo lực của người dân, coi dân như kẻ thù, thì chỉ gieo thêm mầm bạo lực tồi tệ hơn trong tương lai.

Đọc thêm:

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: