Tại sao thuộc địa Anh phát triển hơn thuộc địa Pháp?

“Mặt trời không bao giờ lặn trên đế quốc Anh” (Britannica)

Có một câu hỏi mà có lẽ nhiều người thắc mắc, xuất phát từ thực tế: Vì sao đa số những nước vốn là thuộc địa Anh lại thường phát triển hơn các nước là thuộc địa Pháp? Tất nhiên người nghiên cứu sử học có cách lý giải riêng, người nghiên cứu quan hệ quốc tế thì lại đưa ra quan điểm khác. Rồi ý kiến của các nhà xã hội học, văn hóa học, dân tộc học, chính trị học… cũng khác nhau.

Tôi nhớ đến một cuốn sách xã hội học kinh điển của nhà xã hội học người Đức Max Weber (1864 – 1922) “Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản”. Trong cuốn sách này Max Weber cố gắng đưa ra những kiến giải về sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản ở châu Âu thời kỳ cận đại và những tác động của đạo Tin lành đối với sự phát triển kinh tế. Ông đã khảo sát quan niệm đạo đức của các cá nhân theo đạo Tin lành, thông qua giáo lý của Kinh Thánh và đi đến kết luận rằng nền đạo đức Tin lành có một mối liên hệ với tinh thần của chủ nghĩa tư bản, và do vậy đã tạo được một số động lực tinh thần cho việc phát triển chủ nghĩa tư bản ở châu Âu. Bằng chứng là những quốc gia có đông dân cư theo đạo Tin lành thì sẽ phát triển kinh tế hơn những quốc gia theo Công giáo. Tôi trích một đoạn trong lời giới thiệu sách:

“Giá trị của quyển sách nằm ở chỗ đã đặt ra hai câu hỏi có ý nghĩa hết sức lớn lao. Câu hỏi thứ nhất là một câu hỏi mang tính chất lịch sử: Các giáo phái Tin lành hay nói chung tư tưởng của đạo Tin lành đã ảnh hưởng mức độ nào đến sự hình thành và sự phát triển của chủ nghĩa tư bản?

Câu hỏi thứ hai là một câu hỏi lý thuyết xã hội học: Việc “thông hiểu” các ứng xử kinh tế buộc phải được qui chiếu về các niềm tin tôn giáo, về nhân sinh quan của các tác nhân xã hội trong chừng mực nào hay theo chiều hướng nào?”

Và đây là quan niệm của Max Weber: “Nếu tư duy duy lý kinh tế, trong sự ra đời của nó, phụ thuộc vào nền kỹ thuật thuần lý và luật pháp thuần lý, thì nó cũng phụ thuộc nói chung vào năng lực và tâm thế của con người khi họ chọn những lối sống thuần lý nào đó trong thực tế. Khi lối sống này vấp phải những kìm hãm về tinh thần, thì sự phát triển của ứng xử kinh tế thuần lý cũng sẽ gặp phải những trở lực nội tâm nặng nề.”

Đế quốc Anh và những thuộc địa (Britannica)

Sở dĩ tôi liên tưởng đến cuốn sách của Max Weber bởi vì theo nhìn nhận của ông, chúng ta có thể thấy chủ nghĩa tư bản (hay thực dân, hay đế quốc…) ở từng nước thì có sự phát triển khác biệt và sự khác biệt này phần nào do tôn giáo. Đi xa hơn, phải chăng sự khác biệt ấy đã xuất hiện ở từng thuộc địa của từng quốc gia tư bản? Nước Anh ở thời kỳ cường thịnh nhất của nó là một quốc gia đa số dân chúng theo đạo Tin lành trong khi nước Pháp được mệnh danh là “Đứa con cả của Giáo hội Công giáo La Mã”.

Cũng phải nhắc đến một cuốn sách khác, mang tính chất du ký. Đó là cuốn “Pháp du hành trình nhật ký” của Phạm Quỳnh kể về chuyến sang Pháp của ông năm 1922, đã in nhiều kỳ trên “Nam Phong tạp chí”. Suốt một tháng lênh đênh trên biển trên đường sang Pháp, ông đã ghé nhiều cảng, nhiều xứ thuộc địa của Anh và Pháp và nhận xét rằng những thuộc địa của Anh như Singapore, Penang (Malaysia), Colombo (Sri Lanka)… thì quả là phát triển hơn nhiều so với những thuộc địa Pháp, giao thương buôn bán tấp nập hơn, phát triển kinh tế hơn. Tất nhiên một phần cũng do vị trí địa lý thuận lợi vì là cảng biển.

Như vậy, sự khác biệt giữa thuộc địa của Anh và Pháp là có, nhưng dĩ nhiên đó không phải là quy luật chi phối tất cả. Tôi cho rằng có hai nguyên nhân tạo nên sự khác biệt (nếu có) ở một số quốc gia từng là thuộc địa của Anh và Pháp.

Thứ nhất: Chính sách của người đi cai trị.

Thứ hai: Các yếu tố riêng có của thuộc địa ấy trước, trong và sau thời kỳ thực dân.

Các sử gia trong các công trình nghiên cứu về chế độ thuộc địa cho rằng Pháp thì thiên về khai thác tài nguyên thiên nhiên ở thuộc địa; trong khi Anh thì bên cạnh việc khai thác tài nguyên, còn đặc biệt chú trọng phát triển giao thương buôn bán, đặc biệt là bằng đường biển, do có đội ngũ tàu buôn hùng hậu (nổi bật là những hoạt động của công ty Đông Ấn – British East India Company, được thành lập từ năm 1600).

Huy hiệu thuộc địa Hong Kong của Anh (ảnh: CORBIS/Corbis via Getty Images)

Nhìn chung, đế quốc Anh với câu truyền miệng xa xưa ngày trước là: “Mặt trời không bao giờ lặn trên đế quốc Anh” trong giai đoạn cận đại là một quốc gia mạnh, đặc biệt là vào thế kỷ XIX với một hệ thống thuộc địa rộng lớn trải dài từ Đông bán cầu sang Tây bán cầu. Ở thế kỷ XIX và XX, Anh có diện tích thuộc địa toàn cầu lớn nhất thế giới và Pháp xếp hàng thứ hai.

Một con số thống kê để tiện so sánh: Vào thời kỳ cao điểm giữa những năm 1919 và 1939, đế quốc thực dân của Pháp trải dài trên 12,347,000 km² đất. Nếu tính cả nước Pháp chính quốc thì diện tích đất thuộc chủ quyền của Pháp là 12,989,000 km² trong giai đoạn này, chiếm 8.6% diện tích đất toàn thế giới. Thế nhưng diện tích thuộc địa của Pháp chỉ bằng 1/3 diện tích thuộc địa của Anh.

Nữ hoàng Anh Elizabeth II là người sinh ra khi mà người dân Anh còn tự hào nói rằng: “Mặt trời không bao giờ lặn trên đế quốc Anh”, và khi bà qua đời, thế giới đã rất khác với trăm năm về trước. “Mặt trời không bao giờ lặn trên đế quốc Anh” là câu nói dành cho nước Anh ở thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Cụm từ “đế quốc mặt trời không bao giờ lặn” vốn được sử dụng để miêu tả những đế quốc với lãnh thổ rộng lớn đến nỗi luôn luôn có một phần lãnh thổ của nó nằm trong ban ngày. Trước đế quốc Anh, danh xưng này được dành cho đế quốc Tây Ban Nha vào thế kỷ XVI và XVII.

Bóng dáng thực dân Anh ở Hong Kong – ảnh: Sir William Peel, Toàn quyền Anh tại Hong Kong, 1930 (Getty Images)

Tuy nhiên danh xưng này được các sử gia cho rằng có thể có từ thời cổ đại. Tác phẩm “Câu chuyện về Sinuhe” (thế kỉ XIX trước công nguyên) nói rằng vua Ai Cập ngự trị “tất cả những gì xung quanh mặt trời.”. Nền văn minh Lưỡng Hà, trong những văn bản tiếng Lưỡng Hà, Sargon của Akkad (2334 – 2279 trước Công nguyên) có nói rằng vị vua này ngự trị “tất cả những vùng đất từ bình minh đến hoàng hôn.”

Xerxes I Đại đế (519 – 465 trước công nguyên) trị vì Ba Tư khi xâm lược Hy Lạp lần hai có nói: “Chúng ta sẽ mở rộng bờ cõi xa đến nơi thiên đàng của thánh thần chạm đến. Mặt trời khi ấy sẽ không chiếu sáng nơi nào xa hơn bờ cõi chúng ta”. Câu này được sử gia Hy Lạp Herodotus ghi lại trong sách “Historiai”. Kinh “Cựu ước” cuốn Psalm 72:8 và 72:5 nói về đức vua Messiah: “Người sẽ quản hạt từ biển này tới biển kia, từ sông cho đến cùng Trái đất, hễ Mặt trời, Mặt trăng còn có bao lâu, thì chúng nó kính sợ Chúa bấy lâu, cho đến muôn đời.”

_________

Trong thời kỳ đi xâm chiếm thuộc địa ở thế kỷ XIX, Pháp vẫn là một nước công nông nghiệp, và chủ yếu là công nghiệp khai khoáng, trong khi Anh đã là một nước công nghiệp phát triển cả trong lĩnh vực công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ.

Khi đi khai thác thuộc địa, Pháp chủ trương tập trung khai thác tài nguyên ở các nước thuộc địa để phục vụ công nghiệp khai khoáng. Nhưng Pháp chỉ thực hiện khai thác thô lấy nguyên liệu, đem về chính quốc tinh chế, gia công rồi sau đó mới bán ra thị trường. Anh cũng chủ trương khai thác tài nguyên nhưng thường xây dựng những cơ sở khai thác lớn, áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến để chế biến tại chỗ.

_________

Mặt khác, ở Anh cũng diễn ra một quá trình di dân mạnh mẽ, tổ chức đưa rất nhiều nhân công chính quốc sang các nước thuộc địa, từ đó, văn hóa, pháp luật, tổ chức xã hội… có phần rập khuôn chính quốc nhiều hơn Pháp. Anh thiên về xuất khẩu tư bản nên việc đầu tư vào các nước thuộc địa là rất được chú trọng. Sau khi chế độ thuộc địa tan rã, cơ sở hạ tầng, điều kiện vật chất mà Anh để lại ở nhiều nước thuộc địa là khá thuận lợi cho việc phát triển về sau. Đi cùng với sự phát triển kinh tế là trình độ và cơ chế quản lý. Nhiều thuộc địa ở Anh đã có một nền kinh tế thị trường khá hoàn chỉnh không khác gì chính quốc ngay từ khi mới trở thành thuộc địa (trường hợp của Mỹ, Canada, Australia).

Một góc Singapore khoảng năm 1955 (ảnh: Richard Harrington/Three Lions/Getty Images)

Cơ chế quản lý thuộc địa và bộ máy chính quyền của Anh cũng được đánh giá là hiệu quả hơn Pháp, không quan liêu và cồng kềnh như Pháp. Công sứ Bắc Kỳ, Khâm sứ Trung Kỳ, Thống đốc Nam Kỳ đều làm việc dưới quyền Toàn quyền Đông Dương. Nhưng Toàn quyền Đông Dương quyền uy nhất xứ thuộc địa, khi quay về Pháp cũng chỉ là một trong vô số viên Toàn quyền làm việc dưới quyền Bộ trưởng Bộ thuộc địa. Việc thay đổi chính sách đối với thuộc địa không phải là một việc dễ dàng khi phải qua nhiều tầng cấp.

Trong khi đó, ở Ấn Độ, vị Phó vương (Viceroy of India) thường có vị thế chính trị và quyền lực thật sự cao hơn khi họ đều là những quý tộc danh giá, giữ vai trò quan trọng trong Nghị viện Anh, và thậm chí là người có vị thế trong hoàng gia Anh, thường là em họ hay họ hàng gần của vua Anh. Trường hợp của Lord Mountbatten (1900 – 1979) là một ví dụ cụ thể. Ông là Phó vương cuối cùng của Ấn Độ thuộc Anh, và là Toàn quyền đầu tiên của Lãnh thổ tự trị Ấn Độ. Lịch sử thời kỳ thuộc địa của Ấn Độ cũng ghi nhận dấu ấn của nhiều Phó vương như thế.

Về mặt kiến trúc thượng tầng, các nước thuộc địa của Anh như đã nói ở trên được hưởng nhiều điều lợi so với các thuộc địa của Pháp. Hệ thống pháp luật, giáo dục khá hoàn thiện, đặc biệt là hệ thống giáo dục từ tiểu học lên đại học. Cũng phải nói đến một yếu tố quan trọng là ngôn ngữ. Trong thời đại ngày nay, tiếng Anh cũng đang được sử dụng rộng rãi hơn so với tiếng Pháp, về điều này thì những nước là cựu thuộc địa của Anh đang được hưởng lợi. Khi Ấn Độ giành được độc lập, họ đã không phải thay đổi nhiều về hệ thống luật pháp và nền giáo dục.

Việc phát triển ở thời kỳ hậu thuộc địa như thế nào là tùy thuộc rất nhiều bộ máy lãnh đạo của đất nước đó. Trường hợp của Singapore là một nước nhỏ (gần giống như một thành phố), nhưng do có đường lối phát triển hợp lý cùng với sự lãnh đạo của một người mà ngày nay chúng ta đều thừa nhận là một lãnh đạo giỏi và có tầm nhìn: Lý Quang Diệu, cho dù vẫn có những người chê gia tộc họ Lý là áp dụng chế độ toàn trị. Vị trí địa lý của Singapore cũng thuận lợi cho việc phát triển thương mại, dịch vụ, cảng biển.

Tương tự, Hong Kong cũng vậy. Nam Phi ở châu lục đen có sự phát triển hàng đầu châu Phi là do cơ sở hạ tầng của Anh để lại khá tốt (Nam Phi từng bị Anh, Đức và Hà Lan cùng chia sẻ). Ở nhiều thuộc địa, vấn đề thổ dân đã được người Anh “giải quyết” khá nhanh gọn và không vướng víu gì nhiều, do trình độ phát triển khá cách biệt. Thái độ chính trị với các nước thuộc địa cũng rất quan trọng.

Các thuộc địa của Anh thường giành độc lập thông qua con đường trao trả chủ quyền đất nước một cách hòa bình (tất nhiên cũng có những sự lộn xộn, chia rẽ lãnh thổ như trường hợp của Ấn Độ và Pakistan). Trái lại, có những thuộc địa của Pháp lại phải trải những cuộc chiến tranh để giành độc lập (trường hợp của Việt Nam, Algeria). Hậu quả của chiến tranh, không ít thì nhiều cũng có ảnh hưởng đến sự phát triển của quốc gia về sau này.

Thực dân Pháp tại Việt Nam, 1900 (ảnh: LL/Roger Viollet via Getty Images)

Cho đến nay, hầu hết cựu thuộc địa Anh lại được tập hợp trong một tổ chức là Khối Thịnh vượng chung (The Commonwealth of Nations) với nhiều hoạt động giao lưu hợp tác không chỉ trong kinh tế, thương mại, mà còn cả trong văn hóa, thể thao cho thấy rằng mối liên hệ giữa chính quốc và các cựu thuộc địa còn hết sức mạnh mẽ. Việc ở một số cựu thuộc địa vẫn còn chức danh Toàn quyền đại diện cho nữ hoàng Anh, cho dù chỉ mang tính hình thức cũng cho thấy mối liên hệ gắn bó này. So sánh với những hoạt động và tầm mức ảnh hưởng của Khối Thịnh vượng chung, thì Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie), tổ chức tập hợp các quốc gia có sử dụng tiếng Pháp, có vẻ như mờ nhạt hơn.

Tôi có dịp đi qua các quốc gia Đông Nam Á và thấy rằng quan niệm của sách giáo khoa lịch sử và giới hàn lâm của họ về thời kỳ thuộc địa có phần khác Việt Nam. Tất nhiên điều này do chính sách của từng quốc gia. Nhưng phải nói là phần lớn các quốc gia Đông Nam Á nghĩ về thời kỳ thuộc địa như là một thời kỳ được khai hóa bởi văn minh phương Tây, đặc biệt là ở những quốc gia từng là thuộc địa (trong từng giai đoạn, ở những khu vực khác nhau) của Anh, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha. Và họ ghi nhận công lao của sự khai hóa đó. Ông Lý Quang Diệu từng lên tiếng chê trách Ấn Độ về việc nước này phủ nhận những thành tựu do người Anh để lại. Dù thế nào, tôi cũng cho rằng trình độ dân trí vốn có và nền văn hóa của các xứ sở thuộc địa cũng quan trọng trong việc phát triển thời “hậu thuộc địa”.

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: