Nhân danh ‘God’ lạm dụng tình dục trẻ em

Khi Giáo hội Công giáo còn chọn che đậy và không chủ động các cuộc điều tra độc lập, thì sẽ còn thành viên của hàng giáo sĩ “nhân danh God” để lạm dụng tình dục trẻ em, gây ra nỗi đau mà không có gì có thể chữa lành được. (Ảnh: Lane Turner/The Boston Globe via Getty Images)

Trong gần hai thập kỷ qua, hàng loạt các điều tra và báo cáo của các văn phòng tổng chưởng lý khắp Hoa Kỳ phơi bày nạn lạm dụng tình dục trẻ em trong Giáo hội Công giáo La Mã. Thực tế, cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục của hàng giáo sĩ đã lan tràn khắp Giáo hội Công giáo ở Hoa Kỳ trong nhiều thập kỷ, và đặc biệt chấn động dư luận cách đây 20 năm khi tờ Boston Globe phanh phui hàng loạt vụ che đậy lạm dụng tình dục trẻ em từ năm 1984 đến năm 2002 bởi các linh mục của giáo phận Boston, Massachusetts.

Các linh mục phạm tội ấu dâm chỉ bị luân chuyển trong giáo phận Boston. Sau khi vụ án bị phanh phui, Hồng y Bernard Law, Tổng Giám mục  thành phố Boston lúc đó, đã phải từ chức vì tắc trách và bao che.

Trong tuần vừa qua, văn phòng tổng chưởng lý bang Illinois, Kwame Raoul, vừa cho biết trong một báo cáo điều tra rằng hơn 450 kẻ lạm dụng tình dục trẻ em bị buộc tội đã phục vụ trong Giáo hội Công giáo ở bang này trong gần bảy thập kỷ. Con số này cao gấp bốn lần con số mà giáo hội đã công khai năm 2018, khi chính quyền bang bắt đầu điều tra.

Các câu hỏi về lạm dụng tình dục trẻ em của Giáo hội Công giáo Illinois đã kéo dài trong nhiều năm. Illinois ước tính rằng người Công giáo chiếm khoảng 27% dân số của bang, cao hơn mức trung bình toàn quốc. Vào đầu thập niên 1990, Hồng y Joseph Bernardin của Chicago đã lãnh đạo một ủy ban tiên phong về lạm dụng tình dục, và một hội đồng chủ yếu là các giáo dân để đánh giá các cáo buộc lạm dụng. Nhưng báo cáo cũng ghi lại cách tổng giáo phận Chicago đã phớt lờ các khuyến nghị của chính mình.

Bản báo cáo điều tra dài 696 trang cho biết các giáo sĩ và tu sĩ đã lạm dụng ít nhất 1.997 trẻ em kể từ năm 1950 tại sáu giáo phận của Illinois, bao gồm cả Tổng giáo phận nổi tiếng Chicago. Báo cáo bổ sung 149 cái tên vào danh sách những kẻ lạm dụng tình dục trẻ em mà chính các giáo phận đã công khai xác định trước đó, hoặc trong quá trình điều tra, tăng tổng số tình nghi lên 451. Không ai trong số những kẻ tinh nghi còn nắm giữ chức vụ, và ít nhất 330 người đã chết.

Các nhà điều tra đã phỏng vấn hàng trăm nạn nhân, đối chiếu tài khoản của họ với hồ sơ của giáo phận và các cuộc phỏng vấn khác để chứng minh lời khai của họ. Cơ quan điều tra cũng xem xét hơn 100.000 trang hồ sơ do các giáo phận nắm giữ, đồng thời phỏng vấn các nhà lãnh đạo giáo hội và đại diện của họ.

Một trong những chi tiết khủng khiếp của báo cáo mô tả về Thomas Francis Kelly, một linh mục đã lạm dụng hơn 15 cậu bé tuổi từ 11 đến 17 tại một số giáo xứ trong những năm 1960 và 1970. Ba nạn nhân đã liên lạc với văn phòng điều tra của tổng chưởng lý.

Một trong ba nạn nhân cho biết lúc đó ông chỉ là một cậu bé giúp lễ 11 tuổi và linh mục Kelly đã mời cậu bé đi xem phim và ngủ lại trong nhà xứ. Bản báo cáo cho biết khi cậu bé thức dậy trong đêm thì thấy ông linh mục Kelly đang quan hệ tình dục bằng miệng với cậu. Tuy nhiên, sau đó tổng giáo phận đã chuyển linh mục Kelly từ giáo xứ này sang giáo xứ khác theo báo cáo của tổng chưởng lý. Năm 1990, linh mục Kelly qua đời.

Mike McDonnell, phát ngôn viên của SNAP, một nhóm vận động cho các nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng tình dục, cho biết: “Báo cáo này cho chúng tôi biết rõ ràng rằng không ai biết nhiều hơn về lạm dụng và không ai làm ít hơn về vấn đề này hơn chính các giáo phận này”.

Hầu hết các vụ lạm dụng được ghi lại trong báo cáo đã xảy ra từ nhiều thập kỷ trước. Báo cáo thừa nhận rằng nhiều nạn nhân sẽ không thể truy tố hình sự và kiện tụng dân sự vì hết hiệu lực và phần lớn thủ phạm đã chết. Trong một cuộc họp báo tuần qua, Tổng chưởng lý Raoul cho biết rằng bản báo cáo nhằm cung cấp “trách nhiệm giải trình trước công chúng và một biện pháp chữa lành vết thương cho những người sống sót đã phải chịu đựng trong im lặng từ lâu.

Báo cáo lạm dụng tình dục nghiêm trọng ở Maryland và Pennsylvania

Illinois không phải là bang duy nhất với báo cáo của tổng chưởng lý cáo buộc Giáo hội Công giáo bang này lạm dụng tình dục trẻ em mới nhất. Trước đó, một báo cáo khác dài 463 trang, là kết quả của cuộc điều tra kéo dài 4 năm của tổng chưởng lý Maryland, được công bố vào tháng trước cũng chấn động dư luận. Báo cáo ghi lại tổng cộng 156 thành viên linh mục và giáo sĩ đã lạm dụng hơn 600 trẻ em bắt đầu từ những năm 1940. Báo cáo cũng cho biết một số thành viên của giáo hội đã tìm cách bao che và bảo vệ cái sai.

Baltimore được cho là biểu tượng của Công giáo Hoa Kỳ với tư cách là giáo phận Công giáo đầu tiên được thành lập vào năm 1789. Tuy nhiên, điều tra chi tiết của tổng chưởng lý bang Maryland, Anthony Brown, về các cáo buộc lạm dụng tình dục đã bôi nhòa biểu tượng đó. Tổng chưởng lý Brown cho biết bản cáo cáo “minh họa cho sự thất bại mang tính hệ thống, suy đồi của tổng giáo phận trong việc bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất – là những đứa trẻ mà tổng giáo phận được giao nhiệm vụ giữ an toàn.

Bản báo cáo còn cho biết những kẻ lạm dụng đôi khi nói với các nạn nhân rằng việc lạm dụng là “ý muốn của Chúa”, hoặc nói rằng các nạn nhân và gia đình của họ sẽ xuống địa ngục nếu họ nói với bất kỳ ai. Một nạn nhân khai rằng một linh mục tên là Robert Lentz đã cho anh ta và một thiếu niên khác uống rượu và vuốt ve họ sau khi đưa họ đến xem một trận đấu khúc côn cầu. Một nạn nhân khác cho biết anh đã từ bỏ việc giúp lễ để không phải ngồi chung xe với ông Lentz, người đã chết năm 2007.

Tháng Tám năm 2018, theo một báo cáo nhức nhối được đưa ra bởi một bồi thẩm đoàn, các giám mục và lãnh đạo sáu giáo phận của Giáo hội Công giáo La Mã ở Pennsylvania đã bao che các vụ lạm dụng tình dục trẻ em của hơn 300 linh mục trong khoảng thời gian 70 năm, thuyết phục các nạn nhân không báo cáo vụ lạm dụng. Báo cáo là cuộc kiểm tra rộng rãi nhất của một cơ quan chính phủ ở Hoa Kỳ về lạm dụng tình dục trẻ em trong Giáo hội Công giáo. Báo cáo cho biết có hơn 1.000 nạn nhân có thể nhận dạng được, và có khả năng có thêm hàng ngàn nạn nhân bị mất hồ sơ, hoặc quá sợ hãi để công khai.

Một vài điểm sửng sốt và khủng khiếp của bản báo cáo: một linh mục đã hãm hiếp một cô gái trẻ trong bệnh viện sau khi cô cắt amidan; một nạn nhân bị linh mục trói và quất bằng dây da; và một linh mục khác được phép ở lại thi hành chức vụ sau khi làm cho một cô gái trẻ có thai và đã dàn xếp cho cô ấy phá thai.

Vì đâu đến nỗi?

Tại sao lạm dụng tình dục trẻ em trở thành một vấn đề nhức nhối trong Giáo hội Công giáo La Mã? Một cuộc nghiên cứu toàn diện cho biết tình trạng độc thân bắt buộc và văn hóa giữ bí mật do các giáo hoàng và giám mục đã đặt nền móng là một trong những yếu tố chính giải thích tại sao tỷ lệ lạm dụng trẻ em cao như vậy lại xảy ra trong các nhà thờ Công giáo.

Cần biết rằng đời sống độc thân bắt buộc của các linh mục không phải là giáo điều từ thưở sơ khai của Giáo hội Công giáo. Trong khoảng một ngàn năm đầu tiên của Giáo hội Công giáo La Mã, đàn ông đã kết hôn vẫn có thể trở thành linh mục khi họ đồng ý ngừng quan hệ với vợ. Nhưng sau đó các linh mục này để lại tiền bạc và tài sản thừa kế cho con cái của họ, chứ không phải cho Giáo hội. Đây là một trong những nguyên nhân khiến Giáo hoàng Gregory VII ban hành sắc lệnh độc thân (decree of celibacy) vào thế kỷ 11.

Các linh mục đi ngang qua những người biểu tình để tham dự cuộc họp với Đức Hồng Y Sean P. O’Malley tại hội trường Giáo xứ St. Julia ở Weston, MA vào ngày 28 Tháng Tám năm 2018. Sau sự kiện cơn bão lạm dụng tình dục mới nhất tấn công Nhà thờ Công giáo La Mã, Đức Hồng Y O’Malley đã phát biểu trước 300 linh mục của tổng giáo phận trong một cuộc họp kín. (Ảnh minh hoạ: Pat Greenhouse/The Boston Globe via Getty Images)

Theo giải thích của tổ chức catholic.org, mãi cho đến thế kỷ 11, Giáo hoàng Gregory VII mới ban hành sắc lệnh yêu cầu tất cả các linh mục phải sống độc thân và ông mong muốn các giám mục của mình thi hành điều đó. Sắc lệnh được áp dụng và đời sống độc thân đã trở thành tiêu chuẩn kể từ đó. Một giáo hoàng đương nhiệm có thể thay đổi quy tắc này.

Rất khó để tìm hiểu thấu đáo động cơ lạm dụng tình dục trẻ em của hàng giáo sĩ Công giáo. Nhưng điều dễ dàng có thể biết được là những nạn nhân sẽ mất rất nhiều thời gian, thậm chí cả đời, để có thể chữa lành vết thương tinh thần và thể xác. Vấn nạn này sẽ còn xảy ra khi giới lãnh đạo của Giáo hội Công giáo còn nhắm mắt, bịt tai, và bao che các cáo buộc.

Đại bồi thẩm đoàn Pennsylvania cho biết trong khi một số linh mục bị buộc tội đã bị cách chức, giới lãnh đạo vẫn tìm cách bao che cho một số người. “Cho đến khi điều đó thay đổi, chúng tôi nghĩ còn quá sớm để khép lại cuốn sách về vụ bê bối tình dục của Giáo hội Công giáo,” bồi thẩm đoàn viết.

Khi Giáo hội Công giáo còn chọn che đậy và không chủ động các cuộc điều tra độc lập, thì sẽ còn thành viên của hàng giáo sĩ “nhân danh God” để lạm dụng tình dục trẻ em, gây ra nỗi đau mà không có gì có thể chữa lành được. Trong mấy thập kỷ qua, Giáo hội Công giáo đã phải đền bù hàng tỷ USD cho các nạn nhân. Nhưng chắc chắn không có cái giá nào có thể đền bù cho các thế hệ đã bị lạm dụng tình dục, bằng những cách đáng sợ và kinh tởm nhất, bởi những người mà chúng và cha mẹ của chúng đã tin tưởng nhất.

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: