Trung Cộng cố ý huỵch toẹt chuyện giúp CSVN trong chiến tranh Việt Nam

Hà Nội tổ chức chào đón quân Trung Cộng ngụy trang, vào miền bắc trợ giúp

Trước ít ngày cuối Tháng Tư, vào lúc mà mỗi năm Hà Nội luôn dương dương tự đắc cho  tổ chức các kỳ lễ ăn mừng cuộc chiến tranh “thần thánh” tự lực tự cường, giải phóng đất nước miền Nam, thống nhất đất nước, thì đột nhiên truyền thông của Trung Cộng đột ngột tung ra các tài liệu khẳng định về chuyện đã ra sức giúp miền Bắc Việt Nam  như thế nào trong việc đánh Mỹ và đánh Việt Nam Cộng Hòa.

Dĩ nhiên phần tư liệu mà Trung Cộng đưa ra lúc này, dù không phải là mới mẻ, nhưng quan trọng là Bắc Kinh chính thức khẳng định, chính là một cú tát vào bộ mặt của Hà Nội.

Lâu nay, Hà Nội vẫn tuyên bố rằng Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ ngụy quân ngụy quyền, vì đã rước các thành phần ngoại bang vào tiếp sức trong cuộc chiến Nam Bắc. Suốt nhiều năm, cả tuyên truyền lẫn giáo dục của Bắc Việt đều huyênh hoang rằng chỉ có quân miền Bắc giải phóng đất nước, không cần ai khác, thậm chí phớt lờ luôn cả công sức của Mặt trận Giải phóng miền Nam.

Không thấy có tờ báo nào của truyền thông nhà nước Việt Nam trích dẫn lại những nội dung này hoặc mượn chuyện đó đến ngợi ca tình hữu nghị Việt Trung.

Trong một bài phát thanh của China Radio International (CRI), ông Dương Cảnh Khoa, một quân nhân Trung Quốc, là nhân chứng kể về chuyện ông đến Việt Nam tiếp sức cho bộ đội Bắc Việt vào năm 1966 và 1967. Ông Khoa tốt nghiệp Học viện Radar Không quân Trung Quốc, đã hai lần sang Việt Nam tác chiến “theo lời kêu gọi của Chủ tịch Mao Trạch Đông đến giúp đỡ nhân dân Việt Nam đẩy lùi cuộc tấn công của quân đội Mỹ”, theo bài viết.

Trên web của CRI, còn trưng bằng khen của Việt Nam, do ông Phạm Văn Đồng ký, với mô tả “đây là bằng khen được viết bằng tiếng Việt với những nếp gấp ố vàng và một tấm huy chương quân đội sáng chói. Những bằng khen và huy chương do chính phủ Việt Nam trao tặng cho những người lính Trung Quốc viện trợ Việt Nam, dường như đang kể về những năm tháng cháy hết mình trong giai đoạn viện trợ Việt Nam trong cuộc chiến chống Mỹ”.

Huân chương và bằng khen của ông Dương Cảnh Khoa, do Hà Nội trao tặng vì phục vụ chiến đấu ở miền Bắc Việt Nam

“Những người lính” là cách nói của đài CRI. Nhưng con số chính xác là bao nhiêu?  Đài CRI nói rõ là từ Tháng Sáu năm 1965 đến Tháng Tám năm 1973, Trung Quốc đã điều động tổng cộng hơn 320,000 binh sĩ thuộc các quân chủng Phòng không, Công binh, Đường sắt, Rà phá bom mìn và Hậu cần, v.v. để thực hiện các nhiệm vụ phòng không, xây dựng, rà phá bom mìn và bảo đảm hậu cần ở miền Bắc Việt Nam. Hình ảnh của lính Trung Quốc được ăn mặc hóa trang y như quân Bắc Việt khi xếp hàng chuẩn bị qua Ải Nam Quan để vào đất Việt Nam cũng được giới thiệu trên trang web của CRI.

Ông Dương Cảnh Khoa kể rằng từ Tháng Tám năm 1965, các bộ đội pháo phòng không của Không quân Trung Quốc đã lần lượt bí mật vào Việt Nam. Khi nhớ lại những cảnh tượng khi lần đầu đặt chân đến Việt Nam, ông Khoa nói “Sau khi đến Việt Nam, những người lính Trung Quốc được người dân Việt Nam chào đón nồng nhiệt, ông Dương Cảnh Khoa nhớ lại: “Lúc đó, chúng tôi ở Lạng Sơn và thị trấn Kép, không thấy đồng chí nam nào cả. Họ đi chiến trường hết, rất khổ.

Những đồng chí phụ nữ Việt Nam ở lại thì rất thân thiện, hữu nghị và hào phóng đối với chúng tôi, tôi vẫn nhớ những đồng chí nữ Việt Nam đội nón và nói với chúng tôi rằng, ‘Chào các đồng chí’. Chúng tôi cùng hát ‘Việt Nam-Trung Hoa’, Việt Nam Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông…”. Ông Trương Á Quang cho biết: “Sau khi chúng tôi đến, chúng tôi gặp người dân địa phương Việt Nam. Họ tặng cho chúng tôi rất nhiều sắn. Bà con nói với chúng tôi rằng, đồ này có thể ăn no. Sau khi nhận được sắn, chúng tôi đã chuẩn bị gạo, xà phòng và pin trong đèn pin để tặng cho họ, mọi người đều rất vui”.

Theo tiết lộ từ phía Trung Quốc, từ Tháng Tám năm 1965 đến Tháng Ba năm 1969, tổng cộng có khoảng 150,000 người lính đến từ 63 trung đoàn thuộc 16 sư đoàn của lực lượng phòng không Trung Quốc sang viện trợ Việt Nam chống Mỹ. Trong khoảng thời gian ba năm bảy tháng, họ đã tác chiến 558 lần, bắn rơi 597 chiếc máy bay và bắn trúng 479 máy bay Mỹ. Ông Trương Á Quang, một lính về Phòng không của Trung Quốc, tương tự như ông Khoa, đã cùng đồng đội nung chảy những mảnh vỡ của máy bay Mỹ để làm thành những mô hình nhỏ, mang về tặng cho người nhà để làm quà lưu niệm. Ông Trương Á Quang cho biết, “Đó là chiến lợi phẩm của chúng tôi, chúng tôi rất tự hào.”

Còn ông Dương Cảnh Khoa thì kể “Đó là vào năm 1966, khi tôi 28 tuổi. Tôi đi tàu xuống miền Nam, qua sông Trường Giang và Hữu nghị quan. Sau đó, chúng tôi ở lại Lạng Sơn, tỉnh Hòa Bình, sau đó tiếp tục đi về phía Nam, đến thị xã Kép của tỉnh Bắc Giang, Việt Nam”. Trên đường đến Việt Nam, có một đoàn xe dài và nhiều chủng loại pháo dừng lại tại hai bên đường. Những binh sĩ ngồi trên  xe đều đội mũ lưỡi trai, mặc bộ quân phục màu xanh, đi “dép cao su”, họ ôm những khẩu súng tiểu liên mới, một chiếc chăn bông mỏng và một bộ quân phục để thay đổi, đóng gói đặt dưới mông. Những anh lính trẻ tập nói mấy câu tiếng Anh mới học: “Nộp vũ khí, không giết!” “Chúng tôi đối xử tốt những tù binh”…Sau đó là những tràng cười nhẹ nhàng”.

Lính Trung Cộng cải trang thành quân Bắc Việt, chuẩn bị bước qua Ải Nam Quan của Việt Nam.

Đài CRI dẫn lời ông Khoa, năm nay đã 85 tuổi, ôn lại kỷ niệm rằng “Khi chiến đấu, chúng tôi đều ăn ở tại chỗ, một hầm trú ẩn và một khẩu pháo cao xạ, cứ thế mà đợi. Khi máy bay Mỹ đến, nhiều nhất có hơn 30 chiếc, giống như một đàn quạ bay qua bầu trời, một chiếc máy bay có hơn 2,000 quả bom. Cuối cùng, sư đoàn chúng tôi đã bắn rơi hơn 90 máy bay Mỹ, khi chúng bay đến gần, tôi có thể nhìn rõ phi công là người Mỹ. Sư đoàn của ông Trương Á Quang còn bắt sống một phi công Mỹ, ông cho biết: “Tôi và một vài đồng đội đều tận mắt nhìn thấy lính Mỹ nhảy dù xuống đó, anh có đôi mắt xanh. Chúng tôi nói với anh ta rằng, anh cứ khai thật, chúng tôi sẽ không làm hại anh”.

Đài BBC tổng kết cho biết, Trung Quốc, là nước gửi tổng cộng khoảng 320,000 người liên quan quân sự để giúp các tuyến đường vận chuyển và khẩu đội phòng không, đã có 1,100 người thiệt mạng và 4,200 người bị thương.

Các nguồn của chính phủ Mỹ ước tính tổng cộng lính Bắc Việt thiệt mạng từ 1961 đến 1975 là 1,027,085 người, một con số mà giới chức Ngũ Giác Đài cho rằng có thể bị phóng đại lên 30%. Nhưng Bộ Lao động, Thương binh, Xã hội Việt Nam lại ước tính con số bộ đội chết từ 1954 đến 1975 là 1.1 triệu.

Ước tính số người chết của quân lực Việt Nam Cộng Hòa là 254,257 người.

Theo một thống kê, có 1,446 quân nhân Trung Quốc tử trận trong thời kỳ này được chôn ở 40 nghĩa trang tại 22 tỉnh miền Bắc và Trung Việt Nam.

Một số tỉnh giáp biên giới với Trung quốc như Cao Bằng, Yên Bái, Lạng Sơn, có nghĩa trang dành riêng chôn cất tử sỹ Trung quốc.

Nghĩa trang Thịnh Hưng có 111 mộ tử sỹ Trung Quốc, nghĩa trang Yên Bình có 131 mộ.

Theo lịch sử chính thức của Trung Quốc, từ thập niên 1950 tính tới 1975, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam tổng cộng hơn 20 tỉ nhân dân tệ. Trong đó, 1.4 tỉ là cho vay không lãi suất.

Có lúc Trung Quốc tăng viện trợ, nhưng cũng có lúc giảm đi để bày tỏ bất mãn, như khi Hà Nội đàm phán hòa bình với Mỹ năm 1968 và 1969.

Tin hành lang cho biết là đài CRI dự định cho phát nhiều kỳ, kể công Trung Cộng đã tham chiến cùng Bắc Việt như thế nào, nhưng rồi Hà Nội đã hối hả thương lượng, khiến cuộc “giải mật” bất thường vào Tháng Tư gợi nhớ, đã dừng ở phần một, mà không thấy có phần nối tiếp.

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: